BÁO CÁO TÓM TẮT HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG
MÔI TRƯỜNG TP.HCM
6 THÁNG ĐẦU NĂM 2014
1.
Kết quả quan trắc chất lượng không khí
Ô nhiễm chất lượng không khí trên địa
bàn TP.HCM chủ yếu là do bụi lơ lửng (với 54,75% số liệu quan trắc được vượt
QCCP; 73,91% số liệu quan trắc tại 10 vị trí giao thông vượt QCCP) và mức ồn
(với 60,08% số liệu quan trắc được vượt QCCP; 85,40% số liệu quan trắc tại 10
vị trí giao thông vượt QCCP) do các hoạt động giao thông gây ra.
Nồng độ các chất ô nhiễm tại khu vực
ngã tư An Sương có giá trị cao nhất trong 15 vị trí quan trắc chất lượng không
khí.
Nồng độ các chất ô nhiễm quan trắc
được tại 15 vị trí quan trắc chất lượng không khí cụ thể như sau:
–
Nồng
độ trung bình giờ của CO quan trắc được trong sáu tháng đầu năm 2014 dao động
trong khoảng 4,10 mg/m3 – 10,50 mg/m3 và có 100% số liệu
đạt QCVN. So với cùng kỳ năm 2013, nồng độ CO có giá trị giảm tại 6/6 vị trí
quan trắc (HX, ĐTH – ĐBP, PL, AS, GV, HTP – NVL) từ 1,23 – 1,64 lần. So với sáu
tháng cuối năm 2013, nồng độ CO có giá trị giảm tại 6/6 vị trí (HX, ĐTH – ĐBP,
PL, AS, GV, HTP – NVL) từ 1,14 – 1,43 lần.
–
Hàm
lượng trung bình giờ của bụi lơ lửng dao động từ 185,83 – 643,00 μg/m3,
có 54,75% giá trị quan trắc không đạt QCVN 05:2013/BTNMT. So với cùng kỳ năm
2013, hàm lượng Bụi có giá trị tăng từ 1,03 – 1,10 lần tại 04 trạm (PL, AS, GV,
HTP-NVL) và có giá trị giảm từ 1,09 – 1,174 lần tại 02/6 vị trí quan trắc (HX,
ĐTH-ĐBP). So với sáu tháng cuối năm 2013, hàm lượng Bụi có giá trị tăng từ
1,02 – 1,24 lần tại 02 vị trí (AS, HTP – NVL) và giảm từ 1,04 – 1,27 lần
tại 04/6 vị trí (HX, ĐTH – ĐBP, PL, GV).
–
Nồng
độ trung bình giờ của NO2 quan trắc trong sáu tháng đầu năm 2014 dao
động từ 25,7 – 139,79 μg/m3. So với cùng kỳ năm 2013, nồng độ NO2
giảm từ 1,37 – 2,11 lần tại 6/6 vị trí quan trắc (HX, ĐTH – ĐBP, PL, GV, AS,
HTP – NVL). So với sáu tháng cuối năm
2013 nồng độ NO2 có giá trị giảm từ 1,35 – 2,00 lần tại 6/6 vị trí
quan trắc (các vị trí khác tại thời điểm nêu trên chưa thực hiện công tác quan
trắc).
–
Nồng
độ trung bình giờ SO2 trong sáu tháng đầu năm 2014 là 16,88 μg/m3.
–
Hàm
lượng trung bình ngày của bụi PM10 quan trắc được từ 03/14 – 06/14 vị trí dao
động trong khoảng từ 84 – 122 μg/m3. Có 5 trạm có số
liệu vượt QCCP ( DOS 25%, TN 16,67%, BC 29,17%, 16,67%, 20,83%)
–
Tiếng
ồn: Với 60,08% số liệu quan trắc không đạt quy chuẩn cho phép, dao động từ 45 –
85 dBA. 3 vị trí TSH, TĐ có 100% số liệu quan trắc thấp hơn QCCP. Mức ồn cao
nhất ở vị trí AS và giảm dần theo thứ tự như sau: AS > ĐTH> GV >TN
> HTP >PL > HB >HX>>BC> DOS > ZOO > QT > Q2>
TĐ > TSH.
2. Kết quả quan trắc chất lượng thủy
văn, nước sông và kênh rạch
2.1. Kết quả quan trắc thủy văn
Trong 6 tháng đầu năm 2014, trên
sông Sài Gòn, Hmax dao động ở mức từ 111cm đến 137cm. Trên sông Đồng Nai, giá
trị Hmax luôn dao động ở mức cao từ 137cm đến 158cm. Trên các nhánh sông khác,
giá trị Hmax tại các điểm quan trắc cửa sông dao động trong khoảng từ 124cm đến
139cm. So với 6 tháng cuối năm 2013, Hmax giảm từ 20cm đến 31cm (Cái Mép) trên
cả hệ thống. So với cùng kỳ năm 2013, mực nước Hmax giảm từ 9cm đến 23cm trên
cả hệ thống.
Mực nước Hmin tại các điểm quan trắc
trên sông Sài Gòn giảm đều từ thượng nguồn xuôi xuống hạ nguồn, từ -117cm đến
-204cm. Tại 2 điểm quan trắc trên sông Đồng Nai giảm dần từ thượng nguồn đến hạ
nguồn, từ -184cm đến -231cm. Trên các nhánh sông khác, Hmin thấp nhất tại điểm
quan trắc Cửa Cái Mép cao nhất tại điểm quan trắc Bình Điền.
Trong 6 tháng đầu năm 2014, trên
sông Sài Gòn, Vmax+ dao động từ 0,825m/s đến 1,072m/s. Tại các điểm
quan trắc trên sông Đồng Nai, giá trị Vmax+ giảm dần từ thượng lưu
xuống hạ lưu, từ 1,056m/s đến 0,797m/s. Trên các nhánh sông khác, Vmax+
dao động từ 0,549m/s đến 1,372m/s.
Vmax– trong 6 tháng đầu
năm 2014 tại các điểm quan trắc trên sông Sài Gòn dao động từ 0,673m/s đến
1,039m/s. Giá trị Vmax– dao động từ 0,551m/s đến 1,324m/s. So với 6
tháng cuối năm 2013, Vmax– tăng tại 9/15 điểm quan trắc từ 0,004m/s
đến 0,152m/s và giảm tại 6/15 điểm quan trắc từ 0,018m/s đến 0,329m/s
Trên sông Sài Gòn, lưu lượng bình quân qua mặt cắt trong 6 tháng đầu năm
2014 đạt giá trị lớn nhất tại điểm quan trắc Phú An (46,7m3/s), thấp
nhất tại điểm quan trắc Ngã Ba Thị Tính (17,2m3/s). Trên sông Đồng
Nai, Qbq tăng từ điểm quan trắc thượng nguồn Hóa An (696m3/s) đến
điểm quan trắc hạ nguồn Cái Lái (1086m3/s). Trên các sông khác, lưu lượng
bình quân qua mặt cắt đạt giá trị cao nhất tại điểm quan trắc Nhà Bè (2580m3/s), thấp nhất tại điểm quan
trắc Cửa Ngã 7 (-149m3/s).
2.2. Kết quả quan trắc chất lượng nước sông
– Chất lượng
nước tại các trạm quan trắc nước mặt sử dụng cho mục đích cấp nước:
Các chỉ tiêu BOD5, COD và
độ mặn tại các điểm quan trắc đạt quy chuẩn cho phép đối với nguồn nước mặt
loại A1 (QCVN 08:2008/BTNMT). Độ pH tại 42,86%
điểm quan trắc, coliform tại 57,1% điểm quan trắc và DO tại 71,43% các điểm
quan trắc và nồng độ dầu tại 100% các điểm quan trắc không đạt quy chuẩn cho
phép nêu trên.
So với 6 tháng
cuối năm 2013, các chỉ tiêu DO, dầu, Coliform BOD5 và pH có xu hướng
giảm tại 50 – 100% các điểm quan trắc. Các chỉ tiêu COD và độ mặn có xu hướng
tăng tại 67% các điểm quan
trắc.
So với cùng kỳ
năm 2013, hầu hết các chỉ tiêu có xu hướng giảm tại 50 – 100% các điểm quan trắc, riêng chỉ
tiêu BOD5 có xu hướng tăng tại 67% các điểm quan trắc.
Kết quả tính toán chỉ số chất lượng
nước WQI cho thấy tại 4 điểm quan trắc lấy nước thô cấp cho các nhà máy nước
(điểm quan trắc Hóa An, Hòa Phú, Phú Cường và kênh N46) có chỉ số WQI từ 59,4 –
81,7. Trong đó điểm quan trắc Phú Cường và kênh
N46 có chất lượng nước
sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng cần
các biện pháp xử lý phù hợp.
– Chất lượng
nước tại các trạm quan trắc nước mặt dùng cho các mục đích khác:
Nhìn chung, các chỉ tiêu như pH, BOD5,
COD và nồng độ dầu đo được 6 tháng đầu năm 2014 tại các điểm quan trắc đều đạt
quy chuẩn cho phép đối với nguồn nước mặt loại B1 (QCVN 08:2008/BTNMT). Riêng DO và Coliform tại 47,4 –
52,6% các điểm quan trắc vượt quy chuẩn cho phép nêu trên.
So với 6 tháng
cuối năm 2013, toàn bộ các chỉ tiêu quan trắc có xu hướng tăng từ 47,4 – 89,5% tại các điểm quan trắc.
So với cùng kỳ năm 2013, hầu hết các
chỉ tiêu có xu hướng giảm tại 47 – 100% các điểm quan trắc.
2.3. Kết quả quan trắc chất lượng nước kênh rạch
Theo kết quả
quan trắc chất lượng nước kênh rạch trong khu vực nội thành TP.HCM 6 tháng đầu năm
2014 cho thấy giá trị pH tại hệ thống kênh rạch thành phố đều đạt QCVN
08:2008/BTNMT loại B2.
Nhìn chung
trong 6 tháng đầu năm 2014 trên kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè và kênh Đôi – Tẻ có
mức độ ô nhiễm hữu cơ thấp, nồng độ BOD5 trung bình từ 5,0 – 6,2 lúc
nước lớn và từ 5,1 – 6,6 lúc nước ròng, nồng độ COD trung bình từ 11,4 – 16,4
lúc nước lớn và từ 12,2 – 16,6 lúc nước ròng. 100% mẫu đo được đều đạt QCVN
08:2008/BTNMT loại B2 trên cả 2 kênh.
Ô nhiễm vi sinh
vẫn còn cao trên tất cả các kênh, 100% số mẫu đo được vượt QCVN 08:2008/BTNMT
loại B2 từ 3 – 276 lần.
Trong 6 tháng
đầu năm 2014, trên các hệ thống kênh mức độ ô nhiễm vi sinh đều đang có dấu
hiệu tăng.
3. Kết quả quan trắc chất lượng nước dưới đất
Tầng Pleistocen:
So với QCVN (QCVN
09 : 2008/BTNMT), kết quả phân tích tại các trạm quan trắc thuộc tầng này đa số
đều đạt quy chuẩn cho phép, ngoại trừ chỉ tiêu tổng Coliform có hàm lượng vượt
chuẩn tại tất cả các trạm, trong đó, đáng chú ý ở các trạm CTĐT.
So với 6 tháng
cuối năm 2013, mức độ ô nhiễm hữu cơ và vi sinh tại các trạm vẫn theo chiều
hướng tăng mặc dù kết quả quan trắc các chỉ tiêu khác đã giảm về nồng độ.
Tầng
Pliocen trên và Pliocen dưới:
Nhìn chung, so với QCVN, chất lượng
nước tại 2 tầng này có đa số các chỉ tiêu đạt QCVN (QCVN 09 : 2008/BTNMT) ngoại trừ chỉ
tiêu coliform tổng đều vượt tiêu chuẩn tại hầu hết các trạm. Tuy nhiên, so với
6 tháng cuối năm 2013, hàm lượng các chất ô nhiễm hữu cơ giảm tại đa số trạm
quan trắc mà chủ yếu là nồng độ nitrat.
4. Kết quả quan trắc chất lượng
nước biển ven bờ
Nhìn chung kết
quả quan trắc nước biển ven bờ thuộc 2 khu vực nuôi trồng thuỷ sản và bãi tắm
trong sáu tháng đầu năm 2014 hầu hết các chỉ tiêu đều đạt quy chuẩn cho phép
(QCVN 10:2008/BTNMT; giới hạn khu vực nuôi trồng thủy sản và khu vực bãi tắm).
Một số chỉ tiêu vượt quy chuẩn như: COD có 5/9 vị trí quan trắc vượt quy chuẩn từ 1,04 – 1,9 lần (cửa sông
Đồng Tranh, bãi Cần Thạnh, bãi 30/4, bãi Đồng Hòa, công viên Cần Thạnh). Hàm
lượng dầu tổng ở cả 9 vị trí quan trắc thuộc cả 2 khu vực: nuôi trồng thủy sản
và bãi tắm đều không đạt quy chuẩn Việt Nam.
Hầu hết các chỉ
tiêu kim loại nặng (Cu, Pb, Cd, As, và Hg) trong nước biển ven bờ đều đạt quy
chuẩn cho phép (QCVN 10:2008/BTNMT; giới hạn khu vực nuôi trồng thủy sản và khu
vực bãi tắm).
Tất cả các chỉ
tiêu kim loại nặng trong trầm tích đáy đều đạt tiêu chuẩn cho phép (QCVN 43:2012/BTNMT đối với bùn đáy cửa biển:
nồng độ chì (Pb) 112 mg/kg; cadimi (Cd) 4,2 mg/kg; thủy ngân (Hg) 0,7
mg/kg; asen (As) 41,6 mg/kg; đồng (Cu)
108 mg/kg).
Không phát hiện
hàm lượng thuốc trừ sâu hữu cơ ở tất cả 9 vị trí quan trắc thuộc 2 khu vực nuôi
trồng thủy sản và bãi tắm trong các mẫu phân tích nước biển ven bờ và trầm tích
đáy.
So với sáu
tháng cuối năm 2013, các chỉ tiêu có xu hướng giảm như chỉ tiêu COD (5/9 trạm) và coliform (5/9 trạm); chỉ
tiêu có xu hướng tăng là pH (8/9 trạm). Riêng 2 chỉ tiêu Pb và dầu mỡ không có
xu tăng giảm nhiều thuộc 2 khu vực nuôi
trồng thủy sản và bãi tắm.
So với sáu
tháng đầu năm 2014, các chỉ tiêu có xu hướng giảm như chỉ tiêu COD (6/9 trạm) và dầu mỡ (5/9 trạm); chỉ tiêu
có xu hướng tăng là pH (7/9 trạm). Riêng 2 chỉ tiêu Pb và coliform không có xu
hướng tăng giảm nhiều thuộc 2 khu vực nuôi trồng thủy sản và bãi tắm
Kết quả quan
trắc Đa dạng sinh học tại khu hệ động vật nổi có số loài đạt
cao nhất tại khu vực cửa sông là 24 loài với tổng số cá thể cao nhất là 729500
cá thể/m3 và thấp nhất ở khu
vực khu du lịch là 12 loài với tổng số cá thể thấp nhất tại khu vực bãi triều
đạt 5667 cá thể/m3
Kết quả quan
trắc Đa dạng sinh học tại khu hệ thực vật nổi có số loài đạt
cao nhất tại khu vực cửa sông là 50 loài với số tế bào đạt cao nhất là 98262 tế
bào/lít. Ở khu vực khu du lịch có số loài thấp nhất đạt 24 loài với tổng số tế
bào thấp nhất tại khu vực bãi triều đạt 676 tế bào/lít.
Kết quả quan
trắc Đa dạng sinh học tại khu hệ động vật đáy có số loài đạt
cao nhất tại khu vực cửa sông là 10 loài với số lượng cá thể cao nhất ở khu vực
cửa sông và khu vực khu du lịch là 260 cá thể/m2. Ở khu vực cửa sông
có số loài đạt thấp nhất là 2 loài và số lượng cá thể thấp nhất tại khu vực bãi
triều đạt 30 cá thể/m2.